Tài Chính Hành Vi – Tại Sao Nhà Đầu Tư Thích Cổ Phiếu Của Công Ty Tốt – Phần 1

Trong mô hình phân tích đầu tư chứng khoản cơ bản CAPM có một giá trị gọi là Beta. Beta là hệ số đo lường mức độ biến động của cổ phiếu so với thị trường chung. Nó được sử dụng trong công thức : RE = Rf + Beta x (Rm – Rf). Vậy kiến thức phân tích cơ bản này có ý nghĩa gì đối với tài chinhs hành vi. Quay trở lại với phần giới thiệu về tài chính hành vi, chúng ta đã nói rằng :Tài chính hành vi là một trường phái phân tích đầu tư chứng khoán được xây dựng trên khung của lý thuyết tài chính chuẩn mực trong truyền thống

Xem thêm :

Phần 1 : Behavioral Finance – 1 – Giới Thiệu Về Tài Chính Hành Vi

Phần 4 : Behavioral Finance – 4 – Nhà Đầu Tư Chứng Khoán Bán Quá Sớm Có Lời, Những Người Thua Lỗ Lại Nắm Lâu

… Phần 5.2 : Tài Chính Hành Vi – Tại Sao Nhà Đầu Tư Thích Cổ Phiếu Của Công Ty Tốt – Phần 2

Có giai đoạn, các nhà phân tích đầu tư cho rằng mô hình định giá chứng khoán sử dụng Beta đã cũ. Tất nhiên, mặc dù cũ, nhưng một số nhà đầu tư chứng khoán vẫn thích nó; và cũng có người khác nói rằng sẽ tốt hơn nếu bỏ qua beta. Chúng ta biết rằng, sự tồn tại của hệ số beta rất quan trọng vì beta là trung tâm của CAPM và CAPM là một phương pháp đo lường rủi ro, lợi nhuận kỳ vọng, và mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro trong tài chính tiêu chuẩn.

Việc sử dụng mô hình CAPM có thể là một ví dụ về việc góc nhìn nguy hiểm từ tài chính tiêu chuẩn nếu chúng ta thông qua đó để đánh giá để sự hiệu quả và các lý thuyết của tài chính hành vi cũng như sự tập trung của con người.

Các giả định về hành vi còn người đang dùng làm cơ sở cho CAPM không phải là phiên bản đơn giản hóa của hành vi được quan sát. Thay vào đó, chúng mâu thuẫn với hành vi được quan sát. Ví dụ: các nhà đầu tư trong thế giới của CAPM được giả định là đồng ý về lợi nhuận dự kiến của tất cả các tài sản. Tất nhiên, không ai tin rằng giả định này xảy ra, thậm chí chỉ một phần đó mô tả hành vi của con người.

Giả định về tài chính hành vi cá nhân có thể không quan trọng khi một lý thuyết hoạt động, nhưng mô hình CAPM không lại không hoạt động. Lúc bấy giờ, Fama và French (1992) đưa ra luận điểm bác bỏ CAPM, Hai người đã nêu ra rằng tài chính tiêu chuẩn không cung cấp lý thuyết dự phòng cho lợi nhuận và rủi ro kỳ vọng. Thay vào đó, kết quả là dữ liệu khai thác dưới dạng ảnh hưởng của quy mô và giá sổ sách trên thị trường.

Sau đó là Shefrin và Meir Statman, hai ông đã quan sát các lựa chọn của các nhà đầu tư, thay vì giá cổ phiếu, và đưa ra những hiểu biết vào quá trình các nhà đầu tư hình thành kỳ vọng về lợi nhuận đầu tư chứng khoán. Một phân tích về kỳ vọng của nhà đầu tư có thể cũng là con đường tốt nhất để hiểu về trạng thái cân bằng của mức lợi nhuận dự kiến bởi vì, như mọi người đồng ý, rút ra từ dữ liệu, theo đó hầu như tất cả phân tích hiện tại dựa vào biến động rất nhiều. Bên cạnh đó, trong bài toán so sánh của đông, độ biến động trong dữ liệu kỳ vọng ngược lại lại là rất thấp.

Ví dụ, tạp chí Fortune thu thập dữ liệu về sự kỳ vọng thông qua các cuộc khảo sát được tiến hành của một nhóm trong số những người được hỏi thường được coi là S0-nhà đầu tư thông minh – giám đốc điều hành, thành viên của hội đồng quản trị, và các nhà phân tích tài chính. Hàng ngàn trong số những người được hỏi được yêu cầu mỗi năm để xếp hạng các công ty trên tám thuộc tính, bao gồm chất lượng của quản lý, chất lượng sản phẩm và dịch vụ, và giá trị như một khoản đầu tư dài hạn. Ba công ty hàng đầu, được đánh giá bởi điểm chất lượng trung bình trong khảo sát được công bố trên tạp chí Fortune tháng 2 năm 1993, là Merck & Company, Rubber Groom và Wal- Mart. Ba công ty dưới cùng là Wang Laboratories, Continental Airlines, and GlenfedWang.

Xem xét mối quan hệ giữa xếp hạng của một công ty nhất định về chất lượng quản lý và trên giá trị đầu tư tài chính. Chất lượng quản lý là một thuộc tính của công ty. Ngược lại, giá trị của một khoản đầu tư chứng khoán là một thuộc tính của cổ phiếu của công ty. Nếu người trả lời khảo sát Fortune tin vào hiệu quả thị trường, họ sẽ kết luận rằng giá của một cổ phiếu phản ánh đầy đủ chất lượng của Công ty. Trong thị trường hiệu quả, sự tăng trưởng tuyệt vời của các công ty tốt được phản ánh đầy đủ trong giá cổ phiếu của họ, và do đó, cổ phiếu không cung cấp giá trị đặc biệt như một khoản đầu tư dài hạn. Tương tự, sự tăng trưởng tệ hại của các công ty xấu được phản ánh đầy đủ trong giá của họ cổ phiếu. Không phải cổ phiếu của công ty tốt hay cổ phiếu của các công ty xấu nào là một món hời trong một thị trường hiệu quả. Nếu vậy, chúng ta nên tìm một mối tương quan bằng không giữa xếp hạng Fortune về chất lượng quản lý và xếp hạng Fortune tài sản về giá trị như một khoản đầu tư dài hạn.

Còn nữa …

Phần 2 sẽ giải thích rõ tại sao nhà đầu tư thích cổ phiếu của công ty tốt. Đơn giản là vì họ tin rằng cổ phiếu tốt là cổ phiếu của một công ty tốt

Be the first to comment

Leave a Reply